Hậu quả Siêu_lạm_phát

Siêu lạm phát làm giảm sức mua của các tổ chức tiết kiệm tư nhân và công cộng; bóp méo nền kinh tế thiên về việc tích trữ tài sản thực tế; làm cơ sở tiền tệ tháo chạy khỏi đất nước, cho dù nội tệ hay ngoại tệ có mạnh đến đâu.

Một trong những đặc điểm quan trọng nhất của siêu lạm phát là sự gia tăng thay thế tiền lạm phát bằng cách ổn định làm ổn định tiền vàng và bạc trong thời gian trước đây, sau đó làm ổn định ngoại tệ một cách tương đối (sau sự sụp đổ của tiêu chuẩn vàng bạc, theo định luật Gresham). Nếu lạm phát đủ cao, các quy định của chính phủ như hình phạt nặng, tiền phạt, thường kết hợp với kiểm soát ngoại hối sẽ không thể ngăn chặn việc thay thế tiền lạm phát. Kết quả là, đồng tiền lạm phát sẽ bị định giá thấp hơn so với tiền nước ngoài ổn định, trong điều kiện sức mua tương đương. Vì vậy, người nước ngoài có thể sống và mua sản phẩm ở mức giá rẻ ở các nước bị lạm phát cao. Nó có thể dẫn đến việc chính phủ của các nước - vốn thất bại trong việc cải cách tiền tệ trong một thời gian - phải hợp pháp hóa các ngoại tệ mạnh (trước đây là vàng và bạc), và chúng có thể thay thế hoàn toàn tiền lạm phát. Nếu không hợp pháp hóa ngoại tệ mạnh, thì doanh thu thuế của chính phủ, bao gồm thuế lạm phát, sẽ tiếp cận xuống đến mức 0.[4] Quá trình này có thể thấy được ở Zimbabwe vào cuối thập niên 2000. Khi đó, đồng đôla của nước này, do bị mất giá nghiêm trọng, nên đã được thay thế bằng đồng đôla Mỹ và rand Nam Phi.

Sự kết thúc

Siêu lạm phát thường kết thúc bằng các biện pháp quyết liệt, chẳng hạn như việc áp đặt các biện pháp cắt giảm chi tiêu chính phủ hoặc làm thay đổi cơ sở tiền tệ. Một trong số các biện pháp đó là đô la hóa, tức là sử dụng đồng ngoại tệ (không nhất thiết phải thay thế bằng đô la Mỹ) như là một đơn vị quốc gia của tiền tệ. Một ví dụ là đô la hóa ở Ecuador, bắt đầu từ tháng 9 năm 2000 để đối phó cho sự mất giá nghiêm trọng của đồng sucre. (Đồng sucre khi đó đã mất giá 75% từ đầu năm 2000.) Tuy nhiên, đô la hóa vẫn thường xuyên xảy ra ở các nước, bất chấp các nỗ lực của chính phủ để ngăn chặn nó bởi kiểm soát ngoại hối, tiền phạt nặng hay hình phạt. Chính phủ đã cố gắng để thiết kế một cuộc cải cách tiền tệ nhằm làm ổn định giá trị của tiền tệ. Nếu không thành công với những cải cách này thì tiền lạm phát sẽ bị thay thế bởi ngoại tệ mạnh. Vì vậy, cũng không quá ngạc nhiên khi đã có ít nhất 7 trường hợp trong lịch sử mà trong đó, ngoại tệ mạnh ở nước ngoài đã chấm dứt hoàn toàn việc sử dụng tiền lạm phát. Cuối cùng, chính phủ đã phải hợp pháp hóa các đồng tiền cũ cho trường hợp doanh thu của nó sẽ giảm xuống còn 0.[4]

Siêu lạm phát đã để lại những hậu quả đau thương cho những người bị ảnh hưởng, và các chế độ chính trị tiếp theo luôn ban hành chính sách để ngăn chặn sự tái phát của nó. Điều này có nghĩa là làm cho các ngân hàng trung ương cảm thấy tích cực về việc duy trì sự ổn định của giá cả như trường hợp của ngân hàng Bundesbank tại Đức, hoặc di chuyển đến một số cơ sở phức tạp của đồng tiền như một hội đồng tiền tệ. Nhiều chính phủ cũng đã ban hành mức lương và kiểm soát giá cả cực kỳ gay gắt trong sự trỗi dậy của siêu lạm phát, nhưng điều này vẫn không ngăn chặn lạm phát tiếp tục cung ứng tiền tệ của ngân hàng trung ương, và luôn dẫn đến thiếu hụt hàng tiêu dùng nếu các chính sách được thực thi một cách cứng nhắc.

Hậu quả đối với tiền tệ

Tại các nước từng trải qua siêu lạm phát, các ngân hàng trung ương thường in tiền có mệnh giá lớn hơn và lớn hơn thế nữa, khiến các tờ tiền mệnh giá nhỏ trở nên vô giá trị. Điều này sẽ dẫn đến sự xuất hiện của các tờ tiền có mệnh giá 1 tỷ đơn vị tiền tệ hoặc hơn.

  • Cuối năm 1923, Cộng hòa Weimar của Đức đã phát hành 2 nghìn tỷ tiền giấy và tem bưu chính có mệnh giá 50 tỷ mác. Tờ tiền có giá trị cao nhất do ngân hàng Reichbank của chính phủ Weimar có mệnh giá 100 nghìn tỷ mác (1014, 100.000.000.000.000 hay 100 triệu triệu).[5][6] Ở đỉnh điểm của lạm phát, 1 đôla Mỹ đổi được tới 4 nghìn tỷ mác. Một công ty in ấn đã gửi hóa đơn trị giá (và phải trả) 32.776.899.763.734.490.417,05 mác (3.28 × 1019, làm tròn thành 33 tỷ tỷ) cho Reichbank.[7]
  • Tờ tiền có mệnh giá cao nhất từng được lưu hành là vào năm 1946. Khi đó, Ngân hàng Quốc gia Hungary đã lưu hành tờ tiền mệnh giá 100 tỷ tỷ pengo (1020, 100.000.000.000.000.000.000, 100 triệu triệu triệu) (xem hình ảnh). (Thậm chí, còn có một tờ tiền trị giá cao hơn 10 lần, tức là 1021, 1 nghìn tỷ tỷ pengo, đã được in nhưng không được phát hành. Xem hình ảnh.) Các giấy bạc đã không cho thấy những con số đầy đủ: "trăm triệu b.- pengo" (trăm triệu nghìn tỷ pengo) và "một ngàn triệu b.- pengo" đã được phát âm vì những con số quá dài. Như vậy, tờ giấy bạc 100.000.000.000.000 đôla Zimbabwe đã trở thành tờ giấy mà có mệnh giá hiển thị nhiều số 0 nhất trên thế giới.
  • Sau Thế chiến II, tỉ lệ lạm phát hàng tháng ở Hungary chạm mức cao nhất trong lịch sử thế giới - 41.900.000.000.000.000% (4.19 × 1016% hoặc 41,9 triệu tỷ %) vào tháng 7 năm 1946. Với tỉ lệ này, giá cả ở Hungary sẽ tăng gấp đôi sau mỗi 15,3 giờ. Nếu so sánh, tỉ lệ lạm phát hàng năm ở Zimbabwe là 89.7 nghìn tỷ tỷ % (số liệu tính đến ngày 14 tháng 11 năm 2008)[8], tức là giá cả sẽ nhân đôi sau mỗi 24,7 giờ. Khi viết ra giấy, con số này là 89.700.000.000.000.000.000.000%.

Một cách để giúp người dân khỏi bị ám ảnh bởi những con số 0 là tuyên bố một đơn vị tiền tệ mới. (Ví dụ, thay vì in tờ tiền 10 tỷ đôla, một ngân hàng trung ương sẽ cho đổi tiền theo tỉ lệ 1 tỉ đôla cũ đổi 1 đôla mới. Như vậy, các tờ tiền mới sẽ được ghi là 10 đôla mới.) Một ví dụ thực tế là ở Thổ Nhĩ Kỳ, khi nước này cho đổi tiền lira của mình theo tỉ lệ 1.000.000 lira cũ (TRL) đổi 1 lira mới (TRY) từ ngày 1 tháng 1 năm 2005. Trong khi điều này không làm giảm giá trị thực tế của tiền tệ, nó còn được định nghĩa là "định giá lại đồng tiền" và cũng thỉnh thoảng xảy ra ở các nước có lạm phát thấp hơn. Khi xảy ra siêu lạm phát, lạm phát tiền tệ quá nhanh làm chứa đựng những con số quá lớn trên các hóa đơn trước khi tiền tệ được định giá lại.

Một số tờ tiền được đóng dấu để chỉ ra những thay đổi liên quan đến mệnh giá, vì nó thường mất rất nhiều thời gian để in những tờ tiền mới. Bởi vì, trong thời gian các tờ tiền mới được in, các tờ tiền cũ sẽ trở nên lỗi thời.

Đồng tiền kim loại thường là nạn nhân của siêu lạm phát, do kinh phí để đúc tiền vượt quá giá trị lưu thông của nó. Một số lượng lớn tiền đúc đã bị nấu chảy, thường là bất hợp pháp, sau đó đi xuất khẩu cho các ngoại tệ mạnh.

Các chính phủ thường sẽ cố gắng che đậy tỉ lệ thực sự của lạm phát thông qua một loạt các kĩ thuật khác nhau. Không có hành động nào trong số đó là nhằm giải quyết những nguyên nhân gốc rễ của lạm phát; và nếu bị phát hiện, nó sẽ có xu hướng làm suy yếu niềm tin của người dân vào đồng tiền, dẫn đến tăng lạm phát. Kiểm soát giá cả nói chung sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hàng hóa và nhu cầu rất cao đối với các mặt hàng bị kiểm soát, gây ra sự gián đoạn của các chuỗi cung ứng. Sản phẩm phục vụ cho người tiêu dùng có thể bị giảm hoặc biến mất khi các doanh nghiệp không còn thấy nó đạt hiệu quả kinh tế để tiếp tục sản xuất và (hoặc) phân phối hàng hóa đó theo giá hợp pháp, làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu cung.

Ngoài ra còn có vấn đề với hệ thống tiền xử lý bằng máy tính. Tại Zimbabwe, trong siêu lạm phát của đồng đô la nước này, nhiều máy rút tiền tự động và máy thanh toán thẻ phải vật lộn với các lỗi tràn số học khi khách hàng yêu cầu hàng tỷ và hàng nghìn tỷ đô la trong cùng một thời gian.[9]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Siêu_lạm_phát http://howfiatdies.blogspot.com/2013/09/hyperinfla... http://www.businessinsider.com/7-gasoline-thanks-b... http://www.dailynk.com/english/market.php http://economictimes.indiatimes.com/Zimbabwe_issue... http://www.latimes.com/news/local/valley/la-tr-phi... http://af.reuters.com/article/topNews/idAFKBN0JN1J... http://www.sammler.com/coins/inflation.htm http://www.thezimbabweindependent.com/index.php?op... http://www.zimbabweanequities.com/ http://www.zimbabwesituation.com/nov14_2008.html#Z...